Xét về tổng thể, các quyền của cổ đông theo quy định của pháp luật đã được tuân thủ trên thực tế. Các quyền như tham dự họp ĐHĐCĐ, bầu và bãi miễn thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, chuyển nhượng cổ phần

Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, ở một số không nhỏ các công ty cổ phần (CtyCP), trình tự và thủ tục triệu tập Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) vẫn chưa được tuân thủ đúng. Nguyên nhân khá phổ biến của thực trạng nói trên là Hội đồng quản trị (HĐQT) đã lúng túng, chưa hiểu rõ phải “làm gì”, “làm như thế nào” và “khi nào làm” để triệu tập họp ĐHĐCĐ theo đúng quy định của pháp luật. Và phần đáng kể các tranh chấp trong nội bộ cổ đông CtyCP xuất phát từ việc không thực hiện đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ.

Xét về tổng thể, các quyền của cổ đông theo quy định của pháp luật đã được tuân thủ trên thực tế. Các quyền như tham dự họp ĐHĐCĐ, bầu và bãi miễn thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, chuyển nhượng cổ phần, quyền ưu tiên mua trước, quyền nhận cổ tức… đã được thực hiện tương đối đầy đủ. Quyền của cổ đông, nhóm cổ đông thiểu số trong việc yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ hoặc trực tiếp triệu tập họp theo thẩm quyền đã phát huy được hiệu lực thực tế.

Về quyền được cung cấp thông tin, thì ở hầu hết các CtyCP, cổ đông đã nhận được không chỉ tóm tắt Báo cáo tài chính, quyết định của ĐHĐCĐ, mà còn nhận được cả thông báo về quyết định của HĐQT, và thậm chí cả của Giám đốc (Tổng Giám đốc). Như vậy, cổ đông trên thực tế đã được cung cấp thông tin nhiều hơn so với quy định của Luật Doanh nghiệp.

Trên thực tế, ĐHĐCĐ của đại bộ phận (khoảng 96%) các CtyCP thường họp (thường niên) mỗi năm một lần. Một số khá lớn (khoảng từ 30 – 40%) tổ chức họp ĐHĐCĐ mỗi quý một lần. Về việc triệu tập họp ĐHĐCĐ, đa số công ty (khoảng 60%) nhìn chung tuân thủ đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ. Cuộc họp thường niên thường tập trung thảo luận và quyết định về ba vấn đề sau: (1) Báo cáo hàng năm tổng kết tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; (2) Báo cáo kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm tiếp theo; và (3) mức cổ tức được chia. Ngoài ra, một số CtyCP bầu HĐQT và Ban kiểm soát tại ĐHĐCĐ thường niên. Như vậy, ĐHĐCĐ đã rất ít hoặc không bàn thảo và quyết định về định hướng chiến lược phát triển công ty.

Trong phần lớn các CtyCP (khoảng 85%), Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc chuẩn bị chương trình, nội dung họp và tài liệu họp ĐHĐCĐ thường niên; và ở số còn lại, Chủ tịch HĐQT, hoặc thành viên thường trực hoặc Giám đốc chuẩn bị. Các cuộc họp thường niên của ĐHĐCĐ thường kéo dài nửa ngày (hơn 52%), hoặc một ngày (khoảng 47%); số còn lại kéo dài hơn 1 ngày. Diễn biến cuộc họp thường theo công thức định sẵn như sau: Thứ nhất, Chủ tịch HĐQT hoặc giám đốc trình bày báo cáo đã chuẩn bị sẵn; Sau đó, Ban kiểm soát đọc báo cáo đánh giá “thẩm tra” đã chuẩn bị sẵn từ trước; Cuối cùng là thảo luận và chất vấn. Tại hầu hết các cuộc họp thường niên đều có chất vấn của cổ đông đối với HĐQT. Tuy vậy, cũng tại các cuộc họp đó, chỉ có tại một số CtyCP (gần 8%), quyết định của ĐHĐCĐ có bổ sung thêm nội dung mới; còn lại, thông qua đúng những gì do HĐQT và Ban kiểm soát báo cáo. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng của các cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số, là không đáng kể đối với những quyết định đã chuẩn bị trước của HĐQT.

Quan sát thực tế thời gian qua cho thấy không ít các cổ đông đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của mình. Những vi phạm thường thấy trên thực tế bao gồm:

- Cổ đông lớn (nhất là cổ đông nhà nước) đã lạm dụng quyền và thực thi quyền của mình chưa đúng với quy định của pháp luật như trực tiếp bổ nhiệm đại diện của mình làm thành viên HĐQT, trực tiếp quyết định tăng vốn điều lệ hoặc điều chuyển, sử dụng tài sản của công ty phục vụ cho lợi ích riêng của mình hoặc cho công ty con khác; hoặc đã sử dụng vị thế là cổ đông đa số biểu quyết dành cho mình quyền mua nhiều hơn với giá ưu đãi khi công ty phát hành thêm cổ phần mới…

- Cổ đông sáng lập không góp đủ và đúng số cổ phần đăng ký mua là khá phổ biến. Có sự nhầm lẫn phổ biến (vô tình hoặc cố ý) giữa vốn điều lệ, số cổ phần tạo thành vốn điều lệ và số cổ phần được quyền phát hành. Vốn điều lệ là giá trị danh nghĩa của tổng số cổ phần dã phát hành của công ty và là một trong số các nội dung đăng ký kinh doanh của công ty. Tuy vậy, trên thực tế ở một số lớn CtyCP hiện nay ở nước ta, vốn điều lệ khai báo và đăng ký là giá trị danh nghĩa của cả số cổ phần đã bán và số cổ phần được quyền chào bán (nhưng chưa bán hay chưa phát hành). Thậm chí ở một số công ty số cổ phần đã phát hành chỉ chiếm một số rất nhỏ (khoảng 1/20) tổng số cổ phần đăng ký thành vốn điều lệ của công ty.

Vi phạm nói trên đã tạo ra một số hệ quả không tốt đối với công ty, cổ đông của công ty và cả các bên có liên quan.

Thứ nhất, nó tạo ra một sự nhầm lẫn về sở hữu và cơ cấu sở hữu công ty; có thể có sự chênh lệch lớn giữa cơ cấu sở hữu theo cổ phần đã góp và cơ cấu sở hữu theo số cổ phần đăng ký góp. Và đó là nguyên nhân của không ít các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ cổ đông của công ty.

Thứ hai, về bản chất, có thể coi số cổ phần đã đăng ký và chưa góp đó là số cổ phần mà cổ đông đã mua chịu (với giá bằng giá trị danh nghĩa) của công ty. Hay nói ngược lại, công ty đã bán chịu số cổ phần đó cho cổ đông với giá bằng giá trị danh nghĩa của cổ phần. Bằng cách đó, công ty đã mất đi cơ hội huy động vốn cổ phần để phát triển; bởi vì, nếu giá cổ phần tăng lên, tất cả thặng dư vốn có được thuộc về sở hữu của cổ đông, chứ không phải của công ty; thậm chí công ty còn có thể không thu được số vốn bằng giá trị danh nghĩa của cỏ phần đó. Điều này làm hại đến phát triển lâu dài của công ty và cả lợi ích âu dài của cổ đông.

Thứ ba, gây nhầm lẫn có thể dẫn đến việc lừa dối làm hại đến lợi ích của bên thứ ba ít nhất trên 2 điểm. Điểm thứ nhất là, vốn điều lệ thực tế, đúng nghĩa và hợp pháp có thể thấp hơn nhiều so với vốn điều lệ đăng ký; điều này có thể gây nhẫm lẫn đối với chủ nợ và các bên có quan tâm tìm hiểu về công ty; qua đó, có thể thiết lập giao dịch với công ty dựa trên thông tin không chính xác. Điểm thứ hai là, cổ đông hiện hữu chuyển nhượng “cổ phần” của mình cho người khác có thể chỉ là chuyển nhượng “quyền mua” cổ phần. Hay nói cách khác, người nhận chuyển nhượng cổ phần có thể hiểu nhầm, coi “quyền mua” cổ phần là cổ phần và đã trả giá chuyển nhượng cho quyền mua ngang bằng với thị giá của cổ phần. Tất cả những điều nói trên là vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp về việc yêu cầu cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty trong phạm vi giá trị số cổ phần đã thanh toán.

- Quyền ưu tiên mua trước bị vi phạm hoặc lạm dụng; và nó thường biểu hiện dưới một số hình thức sau đây. Một là, cổ đông đa số với vị thế chi phối của mình tại ĐHĐCĐ đã bỏ phiếu ra nghị quyết phát hành thêm cổ phần mới theo phương thức phát hành nội bộ và dành cho mình quyền mua nhiều hơn so với các cổ đông khác. Hai là, phát hành dưới hình thức “ưu tiên cho người lao động”. Trong các CtyCP được chuyển đổi từ DNNN, thì phần lớn, thậm chí tất cả cổ đông đều là người lao động. ĐHĐCĐ biểu quyết ưu tiên cho người lao động mua cổ phần cũng chính là ưu tiên cho mình, nhưng với tỷ lệ khác so với tỷ lệ sở hữu. Lúc này, những cổ đông đã làm việc lâu năm và thường là thành viên HĐQT và những người quản lý khác được hưởng lợi nhiều hơn so với các cổ đông – người lao động khác. Ba là, hình thức lạm dụng ”cái gọi là” cổ đông chiến lược. Cụ thể là, các cổ đông lớn trong công ty tự coi mình là cổ đông chiến lược và cố tình vận động các cổ đông khác coi mình là cổ đông chiến lược. Với vị thế lớn cổ đông đa số và với danh nghĩa là cổ động chiến lược, cổ đông này đã “hợp pháp hóa” nghị quyết của ĐHĐCĐ dành quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành của công ty với tỷ lệ cao hơn và với mức giá thấp hơn nhiều so với các cổ đông “bình thường” khác. Những hiện tượng nói trên đã vi phạm nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các cổ đông cùng loại; là hành vi tước đoạt một phần giá trị tài sản của các cổ đông nhỏ; và đó cũng có thể coi là một hình thức tham ô giá trị tài sản của công ty.

- Các cổ đông trong các công ty, kể cả một số công ty niêm yết có xu hướng thiên về lợi ích ngắn hạn của riêng mình mà không chú ý đúng mức đến lợi ích phát triển lâu dài của công ty và của chính họ. Xu hướng nói trên thể hiện trong một số hình thức sau đây. Một là chia cổ tức bằng cổ phiếu, tính theo mệnh giá, chứ không phải là thị giá của cổ phiếu khi giá cổ phiếu của công ty đang tăng lên. Bằng cách này, trên thực tế, các cổ đông đã lấy đi một phần thặng dư vốn của công ty, một nguồn vốn hết sức cần thiết để phát triển. Ngoài ra, cách làm nói trên còn có thể làm giảm giá trị cổ phần của công ty theo hai cách: (i) “pha loãng” cổ phiếu công ty, tức là tăng cung về cổ phiếu công ty, và (i) làm suy giảm tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai. Hai là, “cổ phần hóa” thặng dư vốn và phân phối số cổ phần đó cho cổ đông. Cách làm này về thực chất là công ty chia cổ phần cho các cổ đông; và thay vì phát hành cổ phần để huy động vốn, thì các cổ đông đã chia cổ phần đó cho nhau để chuyển nhượng cho người khác không chi thu lại vốn đã đầu tư mà cả phần thăng dư vốn đáng ra là thuộc sở hữu của công ty. Ba là, phát hành nội bộ theo mệnh giá, khi thị giá cổ phần của công ty cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Hệ quả của cách làm này tương tự như cách làm thứ nhất nói trên. Tóm lại, cổ đông của không ít các cổ phần đang có xu hướng chạy theo lợi ích ngắn hạn, đầu cơ trước mắt, hơn là chú ý tăng cường tiềm năng phát triển lâu dài của công ty để đảm báo lợi ích lâu dài và bền vừng của chính họ.

- Ngoài ra còn có một số biểu hiện khác trong việc thực hiện chưa đúng các quy định về quyền của cổ đông như: (i) bỏ phiếu tại cuộc họp của ĐHĐCĐ theo đầu người, chứ không theo sổ cổ phần sở hữu; (ii) Điều lệ của một số công ty đã quy định chỉ có những cổ đông với một mức sở hữu cổ phần nhất định mới được quyền trực tiếp tham dự họp và biểu quyết tại ĐHĐCĐ, hay quy định hạn chế quyền tự do chuyển nhượng sổ chứng nhận sở hữu cổ phần; (iii) một số không nhỏ CtyCP không lập Sổ đăng ký cổ đông và không cấp cổ phiếu cho cổ đông …

Tóm lại, các quyền của cổ đông theo quy định của pháp luật nhìn chung ở mức độ khác nhau đã được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, hiệu lực của việc thực hiện các quyền đó, nhất là của cổ đông thiếu số, trong quá trình ra quyết định tại công ty là khá hạn chế. Hiện tượng vi phạm quyền và nghĩa vụ của cổ đông là khá nhiều với các hình thức đa dạng, và khó nhận biết một cách trực tiếp. Xu hướng chạy theo lợi ích trước mắt, mà quên đi, thậm chí đánh đổi lợi ích lâu dài của công ty và của chính các cổ đông là khá rõ nét trong không ít các CtyCP.
Các tin mới hơn
Nghị Quyết ( 17 / 05 / 2019 )